Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

KIẾN NGHỊ SỐ 05 LIÊN QUAN ĐẾN DỰ ÁN ECOPARK VĂN GIANG



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
                Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2013

KIẾN NGHỊ SỐ 05 LIÊN QUAN ĐẾN DỰ ÁN ECOPARK

VĂN GIANG – HƯNG YÊN

(Kiến nghị của các luật sư trợ giúp pháp lý cho những hộ dân bị thu hồi đất liên quan đến dự án Ecopark – Văn Giang – Hưng Yên, đề nghị  Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ trực tiếp xem xét, giải quyết những vấn đề liên quan đến dự án Ecopark)

Kính gửi:      -   Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Chính phủ.
Đồng kính gửi:  
-   Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
-   Ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước
-   Ông Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội
-   Ông Nguyễn Xuân Phúc – Phó Thủ tướng Chính phủ
-   Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Nội chính Trung ương
-  Các Ông: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Tổng Thanh tra Chính phủ; Bộ trưởng Bộ công an; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Tài chính; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ trưởng Bộ Xây dựng
-  Các cơ quan, đoàn thể: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hội nông dân Việt Nam; Ban dân nguyện – Quốc hội; Ủy ban pháp luật Quốc hội
-  Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên
-   Các cơ quan truyền thông, báo chí
Chúng tôi, những luật sư đang trợ giúp pháp lý cho những hộ dân tại Văn Giang – Hưng Yên do việc họ bị thu hồi đất, liên quan đến dự án Ecopark gửi tới Ngài Thủ tướng và các Quý vị lời chào trân trọng và xin trình bày, kiến nghị như sau:
Việc thu hồi đất ở Văn Giang – Hưng Yên để xây dựng Khu đô thị Thương mại – Du lịch Văn Giang (Dự án Ecopark) có nguồn gốc từ 02 quyết định do Ngài Nguyễn Tấn Dũng ký khi Ngài là Phó Thủ tướng Chính phủ (quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định 742/QĐ-TTg). Hàng ngàn hộ nông dân Văn Giang đã liên tục khiếu nại  từ năm 2006 đến nay nhưng vẫn chưa thấy có văn bản nào do Ngài Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng thay mặt Ngài ký để giải quyết vụ việc. Sau vụ cưỡng chế ngày 24/04/2012, 09 đại diện của những hộ dân bị thu hồi đất đã yêu cầu chúng tôi trợ giúp pháp lý để giải quyết vụ việc. Chúng tôi đã gửi Kiến nghị số 01 đề ngày 22/05/2012 đến Ngài nhưng không thấy hồi âm. Chúng tôi đã gửi Kiến nghị số 03 đề ngày 24/07/2012 tới Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP) để đề nghị Ông Bộ trưởng giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết những khiếu nại, tố cáo, nhưng cũng không có hồi âm.
Nay chúng tôi xin gửi Kiến nghị số 05 tới Quý Ngài với hi vọng, Ngài Thủ tướng sẽ quan tâm, trực tiếp giải quyết hoặc lập một tổ chuyên gia để giúp Ngài giải quyết. Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, thẩm quyền để xem xét hủy bỏ đối với những văn bản do Thủ tướng ban hành thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) và Quốc hội. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ có quyền xem xét lại chính những văn bản do mình ban hành. Mặc dù các hộ dân Văn Giang đã kiên trì khiếu nại tới UBTVQH và Quốc hội, nhưng chúng tôi – các luật sư trợ giúp pháp lý vẫn mong muốn chính Ngài Thủ tướng và Chính phủ sẽ xem xét, quyết định giải quyết những vấn đề đang trong tầm tay của Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ.
Cho phép chúng tôi không trình bày lại toàn bộ sự việc thu hồi đất tại Văn Giang – Hưng Yên, mà xin trình bày về những nội dung, vấn đề quan trọng sau:
1,  Quyết định số 303/QĐ-TTg ngày 30/3/2004 và Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành không đúng thẩm quyền.
2, Hai quyết định trên không căn cứ và cũng không có dấu hiệu phù hợp Quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước đó và đang có hiệu lực.
3, Quyết định 742/QĐ-TTg không ghi cụ thể tên người bị thu hồi đất, diện tích đất bị thu hồi và cũng không giao cho người bị thu hồi đất nên không phải là quyết định thu hồi đất có giá trị đối với họ.
4, Có nhiều dấu hiệu cho thấy có “nhóm lợi ích” không vì dân vì nước đã tìm cách chạy luật, báo cáo và tham mưu thiếu trung thực, bỏ qua những quy định của pháp luật để giao cho một nhóm người không thực sự có khả năng về tài chính, chuyên môn 500 ha đất tại Văn Giang với giá đền bù rẻ mạt, bất chấp ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống, lao động của hàng ngàn hộ dân với hàng vạn nhân khẩu tại Văn Giang.
5, Có hàng loạt vi phạm pháp luật trong việc ban hành những văn bản liên quan đến Dự án Ecopark, khi thực hiện Dự án này, đỉnh điểm là cưỡng chế để thu hồi đất trái pháp luật.
6, Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân Văn Giang không được các cấp chính quyền, tòa án xem xét, giải quyết nghiêm chỉnh từ sau vụ cưỡng chế ngày 24/04/2012.
7, Những vấn đề các Bộ, ngành cần sáng tỏ để giúp Ngài Thủ tướng và Chính phủ giải quyết.
8, Đề xuất hướng giải quyết.
Chúng tôi xin trình bày từng nội dung, vấn đề:
1, Hai quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định 742/QĐ-TTg năm 2004 ban hành không đúng thẩm quyền. 
a, Quyết định 303/QĐ-TTg ngày 30/03/2004 có nội dung phê duyệt  điều chỉnh bổ sung kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm (2001-2005) tỉnh Hưng Yên. Theo Điều 18 Khoản 2 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) quy định: “Chính phủ xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm và kế hoạch điều chỉnh, bổ sung hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…”.  Như vậy, Luật quy định thẩm quyền phê duyệt này thuộc Chính phủ, không thuộc Thủ tướng Chính phủ.
b, Quyết định 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 về việc giao đất để thực hiện dự án xây dựng đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ huyện Văn Giang đến xã Dân Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo Điều 23 khoản 1 điểm a Luật Đất đai trên: “Chính phủ quyết định giao đất trong các trường hợp sau đây:
a)  Giao đất có thu tiền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án”.
Như vậy, Chính phủ có thẩm quyền quyết định giao đất trong trường hợp này, Thủ tướng Chính phủ không có thẩm quyền này.
c, Có người cho rằng Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ không do Chính phủ quyết định tập thể và dẫn chiếu Quy chế làm việc của Chính phủ được ban hành theo Nghị định số 11/1998/NĐ-CP ngày 24/01/1998. Tuy nhiên Quy chế này đã bị thay thế bởi Quy chế được ban hành theo Nghị định số 23/2003/NĐ-CP ngày 12/03/2003. Theo Quy chế năm 2003, (i)Chính phủ quyết định tập thể những vấn đề mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ (ii) Thủ tướng quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Thủ tướng và những vấn đề được Chính phủ giao giải quyết.
d, Các nghị định hướng dẫn Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001) đều không giao cho Thủ tướng quyết định 02 nội dung trên. Ngày 08/05/2012, chúng tôi đã đề nghị ông Vũ Đức Đam – Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cung cấp văn bản xác định Chính phủ có giao cho Thủ tướng ban hành 02 quyết định có nội dung trên nhưng đến nay chưa được cung cấp. Chúng tôi đã tìm hiểu các nghị định, nghị quyết của Chính phủ trong các năm 2003, 2004 nhưng không thấy Chính phủ có giao cho Thủ tướng để giải quyết những vấn đề trên.
2, Hai quyết định Quyết định số 303/QĐ -TTg ngày 30/3/2004 và Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ không căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất đai đã được duyệt.
a, Theo Điều 28 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001), việc thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Theo Điều 17 Luật đất đai trên và Điều 11 Nghị định 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất đai 05 năm và hàng năm là quy hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền  quyết định  hoặc xét duyệt. Trong 02 quyết định nêu trên và trong 02 Tờ trình của Bộ TN-MT liên quan đến 02 quyết định này đều không nêu căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của tỉnh Hưng Yên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 438/QĐ-TTg ngày 04/06/2002.
b, Theo Nghị định 68/2001/NĐ-CP, Bản đồ hiện trạng sử dụng đất đai, bản đồ quy hoạch sử dụng đất, bản đồ chuyên đề phải đi kèm hồ sơ xét duyệt Quy hoạch sử dụng đất đai. Chúng tôi đã yêu cầu Bộ TN-MT cung cấp những bản đồ này cùng Quy hoạch được phê duyệt, nhưng đến nay Bộ TN-MT chưa cung cấp.
c, Ngày 21/08/2003, UBND tỉnh Hưng Yên có Quyết định số 1613/QĐ-UB về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội huyện Văn Giang giai đoạn 2001 – 2010 và định hướng đến năm 2020, không thấy có quy hoạch, kế hoạch xây dựng khu đô thị thương mại du lịch Văn Giang (như dự án Ecopark), cũng có nghĩa tại thời điểm này chưa có quy hoạch sử dụng đất để xây dựng đô thị tại Văn Giang. Mặt khác, theo bà con, vào thời điểm năm 2002-2003, họ được địa phương khuyến khích chuyển từ đất trồng lúa sang đất trồng cây quả, cảnh có giá trị cao, phù hợp với Quy hoạch tổng thể trên. Do đó không có cơ sở để xác định 500 ha đất (trong đó phần lớn là đất nông nghiệp) tại Văn Giang được quy hoạch chuyển đổi làm đất đô thị tại thời điểm 2003 – 2004.
d, Trong buổi đối thoại ngày 08/11/2012 giữa những đại diện của nhiều hộ dân bị thu hồi đất tại Văn Giang với ông Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, người ký 02 Tờ trình của Bộ TN-MT, ông Võ đã thừa nhận nội dung 02 quyết định trên không phù hợp Quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt.
e, Ngày 21/06/2007, Chính phủ mới có Nghị quyết số 31/2007/NQ-CP xét duyệt, điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất của tỉnh Hưng Yên từ năm 2001-2010 (thay thế quyết định 438/QĐ-TTg ngày 04/06/2002 nêu trên).
3, Quyết định 742/QĐ-TTg không phải là quyết định thu hồi đất có giá trị đối với các hộ dân liên quan tại Văn Giang.
a, Bộ TN-MT và chính quyền tỉnh Hưng Yên cho rằng quyết định 742/QĐ-TTg là quyết định thu hồi đất có hiệu lực đối với các hộ dân liên quan tại Văn Giang, mặc dù không giao quyết định này cho họ và cho rằng Luật đất đai 1993 không quy định phải ban hành quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân hoặc ghi tên người bị thu hồi đất, diện tích đất bị thu hồi, (chỉ có Luật đất đai 2003 có quy định).
b, Quan điểm trên không phù hợp pháp luật tại mọi thời điểm (từ năm 2004 đến nay). Luật đất đai 1993 (sửa đổi, bổ sung 1998, 2001) và Luật khiếu nại, tố cáo 1998 (sửa đổi bổ sung 2004, 2005) đều đảm bảo cho các hộ dân quyền sử dụng đất và nếu bị thu hồi được quyền nhận Quyết định thu hồi đất đúng luật, ghi rõ tên họ và diện tích đất bị thu hồi của họ. Cụ thể như sau:
Khoản 2, Điều 3 Luật đất đai 1993 (sửa đổi bổ sung 1998, 2001) nêu rõ: “3- Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp có đất sản xuất”.
Điều 21 Luật đất đai 1993 này cũng quy định: “Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó”.
Điều 28 Luật đất đai 1993 quy định: “Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó.
Việc thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung 2004, 2005) quy định: “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính”.
Khoản 10, Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 định nghĩa về quyết định hành chính như sau: “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính”.
c, Như vậy, việc thu hồi đất phải căn cứ bằng một quyết định hành chính, trong đó ghi tên (hoặc gắn liền một danh sách) một hoặc một số hộ dân cụ thể, cùng diện tích đất bị thu hồi của từng hộ dân. Người dân phải  nhận được quyết định hành chính (có ghi rõ tên họ và diện tích bị thu hồi) để chấp hành hoặc thực hiện quyền khiếu nại. Nếu người dân chưa nhận được quyết định thu hồi đất (có ghi rõ tên họ và diện tích bị thu hồi), họ không có nghĩa vụ phải thi hành quyết định thu hồi đất. Do đó, quyết định 742/QĐ – TTg (không ghi tên người bị thu hồi, diện tích đất của người bị thu hồi) không thể coi là quyết định thu hồi đất của những hộ dân Văn Giang.
d, Việc không giao quyết định thu hồi đất cho người bị thu hồi đất, khiến họ không có quyền  khiếu nại, đã xâm phạm quyền khiếu nại của công dân được quy định tại Điều 74 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
4, Có nhiều dấu hiệu cho thấy có “nhóm lợi ích” đã tìm cách chạy luật, báo cáo không trung thực đến Phó Thủ tướng Chính phủ. 
a, Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng (Vihajico), được cấp Đăng ký kinh doanh ngày 19/08/2004, vốn điều lệ 70 tỷ đồng (đến năm 2006 mới đóng đủ vốn này). Trong các cổ đông, không có cổ đông nào có kinh nghiệm xây dựng đường bộ.
b, Ngay sau khi thành lập, công ty này được chính quyền tỉnh Hưng Yên ưu ái chỉ định thực hiện các dự án xây dựng đường giao thông liên tỉnh, khu đô thị với 500 ha đất, theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng,  tổng vốn đầu tư tạm tính của 02 Dự án này tại thời điểm 2004 là khoảng 4500 tỷ đồng, gấp gần 65 lần vốn điều lệ. 
c,  Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên không nằm trong quy hoạch giao thông đường bộ toàn quốc (được Thủ tướng Chính phủ thông qua theo quyết định 162/QĐ-TTg ngày 15/11/2002) và Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên (theo Quyết định 2978/1999/QĐ-UB của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 29/12/1999, đã được Bộ GTVT cho ý kiến). Tuy nhiên, một nhóm quan chức tỉnh Hưng Yên cùng Vihajico đã báo cáo về một dự án đường cao tốc trọng điểm Hà Nội – Hưng Yên (theo thông tin của ông Đặng Hùng Võ cung cấp). Thực tế, nếu các ban ngành quan tâm đến giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên, chỉ cần nâng cấp một số đoạn đường sẵn có của Hưng Yên. Tuy nhiên, nhóm lợi ích đưa ra dự án đường giao thông trọng điểm chỉ là cớ nhằm có được 500 ha đất giáp Hà Nội, có vị trí đắc địa với giá đền bù rẻ mạt (dự tính ban đầu 20 triệu đồng/1 sào = 360m2 đất), đường giao thông nếu xây cũng chỉ nhằm tăng giá trị của khu đô thị xây trên 500 ha đất này.
d, Nhóm lợi ích này tìm cách được giao đất theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng trước ngày 01/07/2004 khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực. Theo Luật đất đai 2003, phải tiến hành đấu thầu, đấu giá, (không có cơ hội cho nhóm lợi ích này).
Họ đã không làm đúng theo tinh thần của công văn số 1495/CP-NN ngày 31/10/2003, theo đó dự kiến tỉnh Hưng Yênđổi 02 dự án giaothông bằng  quỹ đất từ 300-500 ha tại Văn Giang. Thực tế, nhờ việc báo cáo không trung thực từ nhóm quan chức tham mưu, tỉnh Hưng Yên chỉ đổi 01 dự án bằng quỹ đất 500 ha, có lợi cho nhóm lợi ích này.
e, Nhóm lợi ích này đã bỏ qua những quy định theo Điều 23 Nghị định 04/2000/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 66/2001/NĐ-CP. Theo đó, chỉ được trình Chính phủ giao đất để đổi lấy hạ tầng sau khi tổ chức nghiệm thu và xác định đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng, định giá khu đất sẽ trả cho chủ đầu tư đã bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầngNói cách khác, chỉ khi chủ đầu tư đã xây xong công trình hạ tầng theo cam kết, Chính phủ mới giao đất cho Chủ đầu tư. Nhóm lợi ích này (thông qua những quan chức nhất định đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ), đã tạo điều kiện  để có các giấy tờ giao đất cho Vihajico (với tốc độ nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử về thực hiện thủ tục đất đai tại Việt Nam) khi Vihajico chưa thực hiện xây dựng công trình hạ tầng, tạo điều kiện cho Vihajico lấy mỡ nó rán nó”, “tay không bắt giặc”Công ty này đã bán hàng nghìn căn biệt thự, căn hộ, đã hưởng lợi nhuận nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành hạ tầng.
f, Nhóm lợi ích này không quan tâm đến thực trạng sản xuất, kinh doanh của hàng ngàn hộ nông dân tại Văn Giang, đang được thuận lợi khi chuyển sang trồng cây cảnh theo truyền thống của một số xã tại Văn Giang và do đó cũng không có báo cáo trung thực tới Phó Thủ tướng về thực trạng này (cũng như giải pháp đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho các hộ dân). Lợi ích của hàng nghìn hộ nông dân, với hàng chục  nghìn nhân khẩu bị coi nhẹ, so với lợi ích của Vihajico. 
g, Nhiều cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đã tỏ ra dễ dãi, khi tiếp nhận nhà đầu tư Vihajico, bỏ qua nhiều quy định của pháp luật tại thời điểm đó nhằm giao đất cho Vihajico (xem phần sau).
5, Những vi phạm pháp luật từ một số cơ quan nhà nước liên quan đến Dự án Ecopark (ngoài những vi phạm nêu trên).
a, UBND tỉnh Hưng Yên không công bố, công khai (theo Quyết định 22/2003/QĐ-BTC ngày 18/02/2003) về danh mục các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng được sử dụng quỹ đất, danh mục quỹ đất dùng để tạo vốn cho từng công trình (trong đó có dự án đường giao thông, quỹ đất tại Văn Giang).
b, Do không công bố, công khai nên không thể xác định được có hay không nhà đầu tư khác xin thực hiện những dự án trên, nên việc UBND tỉnh Hưng Yên xác định Vihajico là nhà đầu tư duy nhất (để chỉ định, bỏ qua đấu thầu, đấu giá) không có cơ sở, trái Quyết định 22/2003/QĐ – BTC.
c, Do Vihajico mới thành lập vào tháng 8/2003, vốn điều lệ 70 tỷ đồng, chưa có kinh nghiệm xây dựng hạ tầng, không có cổ đông nào có kinh nghiệm xây dựng đường bộ nên không đủ các điều kiện (vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm) theo quy định tại Điều 7 Quyết định 22/2003/QĐ-BTC. Việc UBND tỉnh Hưng Yên lựa chọn Vihajico là trái Quyết định này.
d, Theo các hộ dân Văn Giang, chỉ đến năm 2006, họ và chính quyền địa phương cấp xã mới biết được địa phương có ý định xây dựng khu đô thị thương mại – du lịch Văn Giang. Như vậy, khi phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng khu đô thị thương mại – du lịch Văn Giang tới năm 2020 theo Quyết định 632/QĐ-UB ngày 25/03/2004, UBND tỉnh Hưng Yên đã không tuân thủ theo khoản 6 Điều 8 Nghị định 52/1999/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định số 07/2003/NĐ-CP: “… Quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi nghiên cứu lập dự án, cơ quan tổ chức lập dự án phải công bố công khai, trưng cầu ý kiến của nhân dân và Hội đồng nhân dân sống trên vùng quy hoạch…”.
e, Bộ TN-MT khi thẩm tra Tờ trình ngày 25/02/2004 của UBND tỉnh Hưng Yên về việc điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất năm 2004, 2005 đã không thẩm tra đề nghị này có phù hợp với Quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước đó không, đã không phát hiện UBND tỉnh trình không đúng thời điểm theo quy định tại Nghị định 68/2001/NĐ-CP về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Lẽ ra, Bộ TN-MT phải hướng dẫn UBND tỉnh Hưng Yên thực hiện theo chỉ thị 05/2004/CT-TTg  ngày 09/02/2004 về triển khai thi hành Luật đất đai 2003, để thực hiện rà soát, phê duyệt, điều chỉnh Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo Luật đất đai 2003. Ngày 12/03/2004 bằng Tờ trình số 14/TTr.BTNMT, Bộ TN-MT vội vã chấp nhận Tờ trình này của UBND tỉnh Hưng Yên là không thực hiện theo Chỉ thị 05/2004/CT-TTg. Tờ trình số 14/TTr.BTNMT không nêu những căn cứ pháp lý là trái thông lệ và những quy định tối thiểu của một văn bản hành chính.
f, Dự án giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội là dự án xây dựng đường quốc lộ, thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của Bộ GT-VT. UBND tỉnh Hưng Yên tự ý phê duyệt Dự án này (đoạn từ Văn Giang đến Dân Tiến – Khoái Châu, đoạn qua Khu đô thị thương mại – du lịch Văn Giang kéo dài) theo Quyết định 1431/QĐ-UB ngày 25/06/2004 mà không có ý kiến, phê duyệt, chấp thuận từ Bộ GT-VT là trái các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ có hiệu lực tại thời điểm đó (Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông đường bộ, Nghị định 167/1999/NĐ-CP về tổ chức quản lý đường bộ). Theo Điều 13 và Điều 14 Nghị định 167/1999/NĐ-CP này, nguồn vốn để đầu tư đường bộ thuộc hệ thống quốc lộ được bố trí từ  nguồn ngân sách trung ương và các nguồn vốn khác. Như vậy, việc phê duyệt dự án này còn phải có ý kiến của Bộ Tài chính (ngoài Bộ GT-VT). Chính từ không có ý kiến từ 02 Bộ này, UBND tự ý ra quyết định (mà không có kinh nghiệm), dẫn đến  không xác định được trách nhiệm bố trí nguồn vốn, một nguyên nhân quan trọng cho việc Dự án giao thông này đến nay chưa hoàn thành.
g, UBND tỉnh Hưng Yên xác định Dự án giao thông trên là Dự án của địa phương, có vốn đầu tư trên 500 tỷ đồng, tức thuộc nhóm A nhưng không thông qua HĐND tỉnh Hưng Yên là làm trái quy định “Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai” theo Nghị định số 07/2003/NĐ-CP.
h, Khi cưỡng chế giải phóng mặt bằng ngày 07/01/2009 đối với trên 200 hộ dân, chính quyền tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang không ban hành quyết định cưỡng chế theo quy định của pháp luật (các hộ dân không nhận được quyết định cưỡng chế, kể cả khi yêu cầu chính quyền cung cấp quyết định cưỡng chế).
Ngày 24/04/2012, chính quyền tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang tiếp tục cưỡng chế thu hồi đất, nhưng không có quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai.
Có nhiều hình ảnh cho thấy đã huy động lực lượng quá mức cần thiết cho những việc cưỡng chế, gây ảnh hưởng xấu đối với dư luận trong và ngoài nước.
6, Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân Văn Giang không được các cấp chính quyền, tòa án xem xét, giải quyết nghiêm chỉnh.
a, Các hộ dân khiếu nại việc cưỡng chế ngày 07/01/2009, tỉnh Hưng Yên và UBND huyện Văn Giang đã không giải quyết theo quy định của pháp luật. 
Đối với việc cưỡng chế ngày 24/04/2012, các hộ dân đã khiếu nại, UBND huyện Văn Giang đã thụ lý nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết, mặc dù đã quá thời hạn theo quy định của Luật Khiếu nại và Tố cáo (nay là luật Khiếu nại).
Các hộ dân đã khởi kiện ra Tòa án tại Hưng Yên, nhưng Tòa án đều không thụ lý đơn khởi kiện của các hộ dân với những lý do không chính đáng.
Tóm lại, các cơ quan địa phương, tòa án tỉnh Hưng Yên tìm mọi cách để không giải quyết khiếu nại của các hộ dân bị thu hồi đất tại Văn Giang, đây là nguyên nhân chính dẫn đến các hộ dân buộc phải khiếu nại, tố cáo vượt cấp.
b, Thanh tra Chính phủ (“TTrCP”) đã 02 lần xem xét khiếu nại, tố cáo của các hộ dân Văn Giang (Văn bản 168/TTCP-V4 ngày 26/01/2007 và báo cáo 2288/BC-TTCP ngày 17/9/2009) nhưng chưa giải quyết triệt để, đúng pháp luật, có nhiều thiếu sót, cụ thể như sau:
-  Những hộ dân này cho rằng quyết định số 303/QĐ- và số 742/QĐ-TTg được ban hành không đúng thẩm quyền, họ đã nêu vấn đề này ngay từ năm 2006 và khiếu nại từ năm 2009 lên Chính phủ và Quốc hội. Tuy nhiên, trong cả 02 văn bản của TTrCP đều không thấy đề cập đến nội dung này. Việc xem xét giá trị pháp lý của 02 quyết định này thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội, vượt quá thẩm quyền của TTrCP. Tuy nhiên, với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ giải quyết các khiếu nại, tố cáo, lẽ ra TTrCP cần báo cáo với Chính phủ về nội dung khiếu kiện này của những người dân bị thu hồi đất để Chính phủ xem xét theo thẩm quyền. 
-  TTrCP cho rằng các dự án này phù hợp với quy hoạch, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt đúng quy định hiện hành. Nhưng TTrCP không nêu rõ những văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền nào đã phê duyệt những quy hoạch nêu trên trước khi ban hành 02 quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, không nêu rõ việc thẩm định và phê duyệt dự án phù hợp như thế nào với những văn bản pháp luật nào? (Chúng tôi đã chứng minh ở phần trên về việc không phù hợp quy hoạch của những dự án này, cũng như những vi phạm về trình tự lập, thẩm định, phê duyệt dự án, có nêu cụ thể những quy định pháp luật bị vi phạm).
-  Văn bản 168/TTCP-V4 ngày 26/01/2007 thừa nhận UBND tỉnh Hưng Yên đã không làm đúng các quy định của pháp luật khi lựa chọn chủ đầu tư, năng lực tài chính của Chủ đầu tư còn hạn chế (vốn điều lệ 70 tỷ đồng). Lẽ ra TTrCP cần kiến nghị Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Hưng Yên phải thực hiện lại việc lựa chọn Chủ đầu tư theo đúng pháp luật, không chấp nhận một doanh nghiệp có năng lực tài chính hạn chế lại làm chủ 02 dự án đầu tư có trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
- Theo báo cáo 2288/BC-TTCP ngày 17/9/2009, chủ đầu tư dự kiến thông tuyến vào tháng 11/2009. Thực tế, đến nay (tháng 1/2013) đoạn đường do chủ đầu tư xây vẫn chưa xong. Như vậy, chủ đầu tư đã báo cáo thiếu trung thực và cán bộ TTrCP được giao nhiệm vụ đã quan liêu, không kiểm tra thực tế, báo cáo sai lệch tới Thủ tướng Chính phủ.
-  Báo cáo 2288/BC-TTCP ngày 17/9/2009 có ghi nhận sự kiện cưỡng chế giải phóng mặt bằng ngày 07/01/2009 đối với trên 200 hộ dân, dẫn đến khiếu kiện tập trung đông người, phức tạp. Nhưng TTrCP đã không tìm hiểu và kết luận việc cưỡng chế này có đúng pháp luật hay không. Thực tế, tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang không có văn bản quyết định cưỡng chế nào để thông báo tới những hộ dân liên quan. Rõ ràng việc cưỡng chế không có quyết định hợp pháp là trái pháp luật, TTrCP lẽ ra phải kết luận. Việc TTrCP không có kết luận dứt khoát đã dung túng thái độ coi thường pháp luật từ nhiều cán bộ của chính quyền địa phương, gây bức xúc trong nhân dân Văn Giang. 
-  Sau ngày 24/04/2012, các hộ dân và các luật sư đã đề nghị TTrCP đối thoại, làm rõ những vấn đề liên quan, trong đó có những vấn đề mới phát sinh nhưng đến nay TTrCP vẫn chưa tổ chức đối thoại và cũng không có văn bản trả lời.
c, Bộ TN-MT đã tổ chức đối thoại với các hộ dân, nhưng đều tìm cách né tránh, trả lời những vấn đề cốt lõi của sự việc. Các hộ dân đã khiếu nại các văn bản số 14/TTr.BTNMT và Tờ trình số 99/TTr.BTNMT tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg năm 2004, nhưng đến nay vẫn chưa thấy Bộ TN-MT thụ lý, giải quyết.
Tóm lại, chúng tôi chưa thấy cơ quan có thẩm quyền nào của Trung ương và địa phương nghiêm chỉnh xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các hộ dân, đặc biệt sau ngày 24/04/2012, mặc dù vào tháng 5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo các Bộ ngành phải xem xét, giải quyết và báo cáo công khai, và chúng tôi cùng các hộ dân kiên trì gửi các kiến nghị đến những cơ quan này.
7, Những vấn đề các Bộ, ngành cần sáng tỏ để giúp Ngài Thủ tướng và Chính phủ giải quyết.
Chúng tôi đề nghị các Bộ, ngành theo thẩm quyền của mình làm rõ những vấn đề sau đây:
a, Bộ TN-MT cần nêu rõ dựa vào những điều khoản nào của văn bản pháp luật nào, quy hoạch nào (trong đó có quy hoạch sử dụng đất nào kèm theo bản đồ quy hoạch) đã được phê duyệt hợp pháp để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg năm 2004.
b, Bộ Tư pháp cần làm rõ quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg  là văn bản quy phạm pháp luật hay là quyết định hành chính? Nếu là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng không đăng công báo có hậu quả pháp lý như thế nào? Nếu là quyết định hành chính, nhưng không ghi cụ thể đối tượng và vấn đề phải thi hành, không giao cho các hộ dân, họ có nghĩa vụ phải thi hành không? Có hậu quả pháp lý như thế nào? Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định này có nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ (trong khi không có văn bản của Chính phủ giao nhiệm vụ cho Thủ tướng) có phù hợp pháp luật tại thời điểm ban hành hay không? (Nếu phù hợp, cần dẫn chứng cụ thể điều khoản nào, văn bản pháp luật nào có hiệu lực tại thời điểm ban hành).
c, VPCP cần làm rõ có Nghị quyết, Nghị định nào của Chính phủ giao cho Thủ tướng Chính phủ quyết định nội dung 02 văn bản 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg hay không?
d, TTrCP cần làm rõ tại sao không báo cáo cho Thủ tướng và Chính phủ việc các hộ dân Văn Giang đang khiếu nại về thẩm quyền ban hành và nội dung 02 quyết định nêu trên của Thủ tướng? Tại sao TTrCP không phát hiện chính quyền địa phương huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên khi cưỡng chế thu hồi đất không có các quyết định cưỡng chế theo đúng quy định của luật Đất đai?
e, Bộ Công an cần làm rõ có việc huy động những lực lượng không thuộc địa phương quản lý cho việc cưỡng chế (có thông qua người có thẩm quyền?), đã sử dụng pháo nghiệp vụ (mà người dân đã thu được hàng trăm tang vật) có đúng quy định?
f, Bộ Kế hoạch và Đầu Tư (Bộ KH&ĐT) làm rõ các Dự án liên quan đã làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật về thẩm định, phê duyệt Dự án? Tại sao những đề xuất trong công văn số 3796/BKH/TĐ&GSĐT ngày 18/6/2004 không được tỉnh Hưng Yên thực hiện.
g, Bộ Tài chính cần làm rõ việc chỉ định chủ đầu tư (Vihajico) có đúng trình tự pháp luật không? Việc giao cho Chủ đầu tư đất trong khi chủ đầu tư chưa hoàn thành xong hạ tầng có đúng pháp luật không? Việc UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên (có giá trị trên 500 tỷ đồng) không thông qua Hội đồng nhân dân có đúng pháp luật không?
h, Bộ Giao thông vận tải (Bộ GT-VT) xác định Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên có phải là dự án xây dựng đường Quốc lộ không? Bộ GT-VT đã có ý kiến, phê duyệt về dự án này trước ngày 30/06/2004 không? Việc UBND tỉnh Hưng Yên tự phê duyệt Dự án này có vượt quá thẩm quyền không?
i, Bộ Xây dựng cần xác định Quy hoạch xây dựng khu đô thị thương mại – du lịch Văn Giang ngày 25/03/2004 đã lấy ý kiến của HĐND và người dân huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên chưa? Nếu chưa lấy ý kiến, có phù hợp pháp luật không?
k, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cần làm rõ tình hình hàng ngàn hộ dân bị thu hồi đất, việc làm, thu nhập, cuộc sống của họ bị ảnh hưởng như thế nào, xác định một sào đất trồng cây cảnh tại Văn Giang hàng năm sau khi trừ chi phí đem lại cho hộ dân thu nhập bao nhiêu? (Có đúng 50 triệu đồng/năm, và nếu đúng như vậy, đương nhiên không ai có thể chấp nhận mức bồi thường 50 triệu/sào để mất đất vĩnh viễn).
l, UBND tỉnh Hưng Yên làm rõ vào các năm 2002, 2003 đã hướng dẫn, khuyến khích nông dân Văn Giang chuyển đổi đất nông nghiệp từ trồng lúa sang trồng cây quả, cảnh có giá trị cao không? Tại sao quyết định giao đất cho Vihajico, trong khi chưa có quyết định thu hồi đất của các hộ dân và Vihajico chưa hoàn thành hạ tầng? Giải thích tại sao cưỡng chế thu hồi đất của nông dân nhưng không có quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai? Tại sao UBND huyện Văn Giang không giải quyết các khiếu nại của các hộ dân?
8, Đề xuất hướng giải quyết.
a, Chúng tôi tiếp tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ áp dụng Điều 8 Khoản 7 và Điều 20 Khoản 4 Luật Tổ chức Chính phủ thành lập một Ủy ban lâm thời (tổ chuyên gia) để giải quyết những vấn đề liên quan đến Dự án Ecopark như Kiến nghị số 01 của chúng tôi.
b, Các cơ quan hữu quan cần khuyến khích và tạo điều kiện cho Vihajico  thương lượng trực tiếp với các hộ dân khiếu kiện để đạt được một phương án có thể chấp nhận được. Chúng tôi đã tiếp xúc với lãnh đạo Vihajico, có vẻ họ sẵn sàng chấp nhận thương lượng, nhưng lo ngại có một số người có ảnh hưởng ngăn cản cách thức giải quyết này.
c, Đề xuất của các hộ dân đang khiếu kiện, trong đó có những hộ dân có kinh nghiệm trồng cây cảnh (Văn Giang có một số làng chuyên cây cảnh có truyền thống và nổi tiếng ở miền Bắc), giữ lại khoảng 130ha đất để họ chuyên trồng cây cảnh trong Dự án đô thị sinh thái Ecopark. Đây là đề xuất hợp lý và thiện chí của các hộ dân, nếu chấp nhận sẽ giải quyết được toàn bộ những vấn đề của Dự án.
Các xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công huyện Văn Giang có lịch sử hàng nghìn năm. Tên Phụng Công do Hai Bà Trưng đặt, để biết ơn những người dân đã che chở hai Bà. Những xã trên có lịch sử oai hùng trong kháng chiến chống Pháp (chống càn) và chống Mỹ (trận địa pháo phòng không). Những nông dân Văn Giang đã tin tưởng theo Đảng cộng sản Việt Nam, để người cày có ruộng. Họ có niềm tin Đảng và Nhà nước sẽ bảo đảm quyền căn bản này của nông dân, không vì lợi ích của bất cứ nhóm người nào khiến quyền căn bản của họ bị tước đoạt, và buộc họ phải khiếu kiện triền miên.
Chúng tôi trân trọng đề nghị Ngài Thủ tướng và các cơ quan chức năng quan tâm đến kiến nghị này và sớm giải quyết, để các hộ dân Văn Giang an tâm sống, làm việc trên mảnh đất của mình.
Chúng tôi xin đề nghị lãnh đạo các cơ quan chức năng bố trí lịch làm việc với chúng tôi và đại diện các hộ dân để chúng tôi trình bày rõ hơn về nội dung sự việc và nguyện vọng của các hộ dân.
Nhân dịp đầu xuân, chúng tôi  xin chúc các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành sức khỏe và thành công trong năm mới.
Trân trọng./.
Các luật sư đang trợ giúp pháp lý cho những hộ dân bị thu hồi đất liên quan đến dự án Ecopark – Văn Giang – Hưng Yên ký tên.
Địa chỉ liên hệ: số 81 phố chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.  Điện thoại: 04 3775 4788.
Nơi gửi:
-  Như trên
-  Đại diện những hộ dân bị thu hồi đất tại Văn Giang – Hưng Yên yêu cầu luật sư trợ giúp pháp lý.
Tài liệu kèm theo Kiến nghị:
  1. Tên các văn bản pháp luật tham khảo.
  2. Các tài liệu liên quan đến Dự án Ecopark
  3. Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân
  4. Các kiến nghị và các văn bản của luật sư
  5. Những trao đổi của Luật sư, đại diện các hộ dân với BộTN-MT, với ông Đặng Hùng Võ và những tài liệu liên quan khác.



....
Nguồn:http://xuandienhannom.blogspot.com/2013/01/kien-nghi-so-05-lien-quan-en-du-ecopark.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến