PHẠM ĐÌNH TRỌNG
LỜI THƯA. Khi bắt đầu viết, bài này có tựa Đảng Cộng Sản Việt Nam Với Lợi Ích Dân Tộc Việt Nam. Mới gõ phím được hơn trang, người viết được đọc bài Uẩn Khúc Trong Điều 4 Hiến Pháp, thấy giáo sư Hoàng Xuân Phú đã soi rọi rất tinh tế, chính xác xảo thuật ngôn từ mà những người soạn thảo HP (Hiến pháp) đã sử dụng giúp ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) không bị ràng buộc vào bất kì điều nào của HP để ĐCSVN điềm nhiên đứng ngoài và đứng trên HP.
Bài viết của tôi, tập trung chỉ ra điều 4 HP ghi: ĐCSVN . . . đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam là hoàn toàn không đúng sự thật. Trong lịch sử hoạt động, ĐCSVN luôn luôn thí bỏ lợi ích dân tộc thiết thực để theo đuổi lợi ích giai cấp hư vô của đảng.
Bài viết của giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ ra sự khuất tất trong xảo thuật ngôn từ của điều 4 và trong toàn HP. Bài viết của tôi chỉ ra sự thiếu trung thực của điều 4 HP. Hai bài là hai vế đối về sự bất minh của điều 4 HP. Vì thế tôi thấy cần thay đổi tựa bài để là một vế song hành về ý tứ với bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú.
Điều 4 Dự thảo Hiến pháp 2013 viết: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Viết gọn lại là: Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Một đảng chính trị của chính trường Việt Nam mà coi thường và khinh bỉ Nhân Dân Việt Nam đến mức nghiễm nhiên giành quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không cần có lá phiếu của người Dân, không cần biết người Dân Việt Nam có chấp thuận sự lãnh đạo đó hay không, không đếm xỉa đến quyền lợi hiển nhiên, sơ đẳng, bình thường và thiết thực của người Dân là quyền Công Dân, quyền bầu cử chọn ra người lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đối xử với Dân kẻ cả, quyền uy và tệ bạc như vậy mà lại bảo rằng đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam thì đúng là viết lấy được, nói lấy được, một lối nói, một cách làm của quyền uy độc tài, quen thói áp đặt!
Thực tế đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng đảng không những không vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà đảng còn hi sinh lợi ích dân tộc Việt Nam cho lợi ích của đảng, cho những mục tiêu viển vông, siêu thực của đảng, cho cuộc cách mạng vô sản thế giới hão huyền, chỉ đẩy Dân vào chiến tranh hận thù, chỉ lấy Dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô!
1. ĐƯA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀO CON ĐƯỜNG MÁU LỬA. DÂN TỘC VIỆT NAM ĐÃ PHẢI TRẢ GIÁ MÁU QUÁ ĐẮT CHO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Khi đất nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược là khi thế giới đã bước vào thời công nghiệp hóa. Những nước đi đầu trong công nghiệp hóa trở nên giàu mạnh, văn minh liền mang sức mạnh công nghiệp đi xâm lược các nước còn đang tăm tối trong nền sản xuất nông nghiệp cổ lỗ. Công nghiệp hóa là thời của toàn cầu. Mọi vấn đề của thế giới, của con người, từ cuộc sống của mỗi con người đến số phận các dân tộc đều mang tính toàn cầu. Các sĩ phu Việt Nam yêu nước chỉ quanh quẩn trong nước, sử dụng lực lượng tại chỗ, lòng yêu nước chỉ được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác đứng lên khởi nghĩa chống Pháp đều đơn độc, lẻ loi và cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dìm trong máu. Những người Việt Nam yêu nước từ thế hệ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu đều đã biết hướng ra thế giới tìm kiếm, học hỏi thế giới, nắm bắt xu thế thời đại, khai thác sức mạnh thời đại vào sự nghiệp cứu nước.
Đi ra thế giới tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, với trái tim yêu nước nồng nàn và tầm nhìn thấu đáo, sâu xa, Phan Châu Trinh thấy trước hết phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”: Thức tỉnh ý thức tự lập, tự cường, chấn hưng đất nước. Lập phường hội phát triển công thương, phát huy nghề tinh. Tiếp nhận công nghệ mới, bước theo các nước công nghiệp, công nghiệp hóa, tư bản hóa xã hội Việt Nam. Dân giàu nước mới mạnh, số đông người Dân giàu có về đời sống văn hóa và đời sống kinh tế, từ đó mới có ý thức về quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc, có tư thế bình đẳng và có lực lượng cần thiết đấu tranh chính trị và chỉ đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc.
Con đường Phan Châu Trinh đã chọn cho dân tộc Việt Nam cũng là con đường Mahatma Gandhi đã chọn cho dân tộc Ấn Độ và Ấn Độ đã giành được độc lập dân tộc không phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu với đế quốc Anh. Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản. Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa và chứa chất hận thù đến tận hôm nay vẫn chưa thôi bạo lực, chưa trút bỏ hận thù!
Đi ra thế giới, những người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Đọc luận cương của V. Lê nin về cách mạng bạo lực và hận thù của vô sản thế giới, Hồ Chí Minh, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, sung sướng đến ứa nước mắt reo lên: Đây rồi! Đây chính là cái mà chúng ta cần!
Từ đây, dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại bằng yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” bị cuốn vào thời bạo lực và hận thù giai cấp, “lá rách” đấu tố, thù hận “lá lành”, loại bỏ “lá lành”, dân tộc bị chia rẽ sâu sắc, bị suy yếu rệu rã và bị lệ thuộc chặt chẽ vào nước lớn cùng ý thức hệ!
Phan Châu Trinh làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng những cải cách nâng tầm đất nước, nâng tầm dân tộc, đưa đất nước đi vào con đường công nghiệp hóa làm cho Dân giầu nước mạnh và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải dựa vào những người Dân giàu có trí tuệ, giàu có của cải đó. Nhưng cách mạng vô sản thì ngược lại. Coi làm giàu là bóc lột, là bất công xã hội, đứng về phía những người nghèo khổ bị bóc lột, cách mạng vô sản đưa giai cấp công nông, giai cấp nghèo khổ, không có của cải, không có tri thức, chỉ có xiềng xích và hai bàn tay trắng lên lãnh đạo cách mạng, coi người giàu tri thức và giàu của cải đều là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng cần chuyên chính, loại bỏ! Đó là một thảm họa lớn kéo dài mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam và biến động bi thảm tháng chín năm 1930, những người Cộng sản phát động Dân nghèo Nghệ Tĩnh nổi dậy chém giết trí, phú, địa, hào, “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là một cảnh báo nghiêm khắc.
Sau gần một thế kỉ bị thực dân Pháp đô hộ, gần một thế kỉ nước mất, thân nô lệ, những tâm hồn Việt Nam chân chính đang khao khát cháy bỏng giải phóng dân tộc. Những người Cộng sản Việt Nam giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã khai thác, tập hợp được sức mạnh dân tộc Việt Nam làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi những đội quân xâm lược hùng mạnh của thời đại.
Chiến thắng những đội quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản, không phải là chiến thắng của học thuyết hận thù, đấu tranh giai cấp.
Giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã thu hút được một số quan lại, trí thức, tư sản, chủ đất. . . , những người thuộc giai cấp tư sản với lòng yêu nước hồn nhiên đã tập hợp trong đội ngũ những người kháng chiến giành độc lập. Nhưng lí tưởng Cộng sản, học thuyết đấu tranh bạo lực, hận thù giai cấp đã đẩy số đông người Việt Nam yêu nước tỉnh táo, sáng suốt, không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản sang phía kẻ thù không đội trời chung. Ngay cả với những trí thức, tư sản, những trí tuệ và tài năng ở tầng lớp trên đi với những người Cộng sản, có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng bị những người Cộng sản ngộ độc học thuyết đấu tranh giai cấp, đố kị, khinh rẻ, bạc đãi, đày ải điêu đứng. Những thân phận ngậm ngùi, ê chề, đau khổ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, . . . vì sự đố kị, bạc đãi, đày ải đó không phải là cá biệt. Chủ nghĩa Cộng sản với học thuyết bạo lực, hận thù, đấu tranh giai cấp đã gây quá nhiều đau khổ cho nhiều thế hệ, cho hàng triệu người Việt Nam yêu nước thương nòi, gây chia rẽ, li tán sâu sắc cả dân tộc Việt Nam.
Chiến thắng bằng bạo lực và hận thù của những người Cộng sản đã buộc dân tộc Việt Nam phải trả bằng giá máu và giá đạo lí quá đắt:
Giá phải trả bằng máu của cả chục triệu người, gần một phần ba dân số Việt Nam phơi thây ngoài mặt trận, chết gục trong đấu tố, chết thảm trên pháp trường, chết mòn trong tù ngục, chết mất xác trong thủ tiêu âm thầm! Xã nào, huyện nào tỉnh nào cũng có những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông, trắng xóa những nấm mồ người chết trẻ, tuổi mười tám, đôi mươi. Rồi còn những người chết trong thù hận không nấm mồ, không dấu tích cũng nhiều không kém, tính không xuể!
Hãy đến nghĩa trang liệt sĩ một xã như xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hãy đến nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn để thấy bằng hình ảnh, bằng chứng cứ món nợ máu đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam lớn như thế nào, để thấy giá máu dân tộc Việt Nam đã phải trả lớn như thế nào khi đi trên con đường đấu tranh giành độc lập bằng bạo lực do những người Cộng sản lãnh đạo! Càng đau xót hơn khi người Dân phải trả giá máu đắt như vậy nhưng đất nước vẫn chưa có nền độc lập thật sự, đất đai biển trời không còn được nguyên vẹn và người Dân vẫn chưa thật sự có tự do, chưa được thực sự làm Người, vẫn mang ách nô lệ của một Nhà nước độc tài đảng trị!
Giá của cuộc nội chiến tương tàn chia rẽ sâu sắc một dân tộc vốn chỉ có thể tồn tại bằng đoàn kết dân tộc, bằng yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách! Giá của đất nước gấm vóc bị 30 năm chiến tranh hiện đại, chiến tranh điện tử, chiến tranh siêu âm, chiến tranh bấm nút, chiến tranh hủy diệt tàn phá!
Giá của văn hóa dân tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ. Nhà nước cướp đất của Dân bằng bạo lực cưỡng chế. Nhà nước trả lời những chính kiến khác biệt của người Dân bằng bạo lực công an, tòa án, nhà tù. Bỏ tù người Dân có chính kiến khác biệt bằng những tội danh hình sự áp đặt, giả tạo. Công an ngang nhiên đánh Dân, bắn Dân trên đường phố. Công an ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, tùy tiện bắt bớ Dân. Công an đánh chết Dân trong nhà tạm giam, trong trụ sở công an diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên cả nước. Nhà nước Cộng sản dùng bạo lực gây hận thù rộng khắp đất nước và gieo rắc hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam.
Tất cả sử sách của đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều thú nhận rằng cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền của những người Cộng sản. Cướp là bất chính, là bạo lực. Một Nhà nước ra đời trong bạo lực, tồn tại bằng bạo lực không thể là Nhà nước lương thiện, tử tế! Nhà nước không lương thiện, tử tế tất yếu tạo ra xã hội không lương thiện, tử tế. Xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội như vậy, xã hội lừa đảo, bạo lực và hận thù! Bạo lực và hận thù biến con người thành con thú! Bạo lực và hận thù man rợ như xã hội thời hồng hoang chưa có luật pháp!
2. VÌ LỢI ÍCH GIAI CẤP HƯ VÔ TỪ BỎ LỢI ÍCH DÂN TỘC THIẾT THỰC. ĐẨY DÂN TỘC VIỆT NAM VÀO CUỘC NỘI CHIẾN TƯƠNG TÀN
Năm 1954, phần lớn lực lượng của đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Cả hệ thống phòng thủ của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã bị vô hiệu, bị nhấn chìm trong biển lửa chiến tranh du kích. Binh đoàn chủ lực mạnh của Pháp ở miền Trung bị đánh tan tác ở đèo An Khê. Cả hệ thống đồn bốt của Pháp ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ đã tự tan rã từng mảng lớn. Hai phần ba lãnh thổ Việt Nam đã được giải phóng khỏi đội quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược chỉ còn giữ được những thành phố, thị xã ở đồng bằng nhưng phần lớn người Dân trong những thành phố, thị xã đó cũng là những người Việt Nam yêu nước, chống Pháp. Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm.
Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ. Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới, coi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi đất nước, dân tộc chỉ là “tiểu cục” trong cái “đại cục” cách mạng vô sản thế giới.
Ngạo ngược và hợm hĩnh đưa lá cờ búa liềm của chỉ một giai cấp, giai cấp công nông bần cùng, lá cờ vay mượn từ xứ người và chung chạ với xứ người lên ngang với lá cờ Tổ quốc Việt Nam, những người Cộng sản Việt Nam thẳng thừng tuyên bố rằng với họ, Tổ quốc Việt Nam không phải là trên hết! Vì lá cờ vay mượn và chung chạ đó, những người Cộng sản đã chuyển hướng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giai cấp. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang băng băng đi đến thắng lợi hoàn toàn bị buộc phải dừng lại để làm nhiệm vụ giai cấp. Đặt trên đôi vai dân tộc Việt Nam nghèo khổ, gày guộc cuộc chiến tranh ý thức hệ khốc liệt của cách mạng vô sản thế giới, những người Cộng sản lạnh lùng chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương thành hai trận địa, hai tiền đồn chĩa súng vào nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi thành hai đội quân xung kích của hai phe ý thức hệ quyết liệt lăn xả vào nhau chém giết, tiêu diệt nhau, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam đẫm máu suốt hai mươi năm trời!
Trong khi những người Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thì những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng lại núp dưới lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ đó để vụ lợi, để mưu lợi ích cho Tàu Cộng. Họ mượn máu của dân tộc Việt Nam làm vốn liếng chính trị cho Tàu Cộng, để Nhà nước công nông Tàu Cộng từ bóng tối nội chiến, nghèo đói, lạc hậu bước ra ánh sáng thế giới. Ép Việt Nam chấp nhận tham gia hội nghị Geneve năm 1954 chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương để Tàu Cộng có cơ hội lần đầu tiên được bước lên vũ đài chính trị thế giới, giành được vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Lấy máu của dân tộc Việt Nam mặc cả với tư bản thế giới kiếm chác lợi ích cho Tàu Cộng, những người Cộng sản Tàu còn lấy đấu tranh giai cấp để chia rẽ dân tộc Việt Nam, đánh tan rã khối đoàn kết dân tộc, lấy chiến tranh ý thức hệ khoét vết thương nhức nhối trong lòng dân tộc Việt Nam, làm suy yếu dân tộc Việt Nam, buộc Việt Nam mãi mãi phụ thuộc vào Tàu Cộng, mãi mãi là chư hầu của Tàu Cộng để Tàu Cộng thực hiện giấc mộng thôn tính, bành trướng mà tổ tiên họ ôm ấp từ ngàn đời vẫn chưa thực hiện được.
Nông cạn, không xứng tầm lịch sử, không mang hồn dân tộc, không đau đáu với lợi ích dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã không thấy được mưu đồ Đại Hán Tàu Cộng, răm rắp chấp nhận sự áp đặt của Tàu Cộng, cúi đầu kí hiệp định Geneve năm 1954 chấp nhận ngừng cuộc chiến giải phóng hoàn toàn đất nước, chấp nhận chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương, chia đôi dân tộc Việt Nam ruột thịt thành hai nửa đối kháng một mất một còn với nhau!
Ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, chia cắt đất nước, chia cắt dân tộc Việt Nam thành hai nửa thù địch nhau, Hiệp định Geneve năm 1954 là thất bại ê chề, đau đớn mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam. Từ đây dân tộc Việt Nam có lịch sử hào hùng bốn ngàn năm kiêu hãnh là dân tộc độc lập tự chủ trở thành dân tộc tội nghiệp bị cột chặt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa của thế giới Cộng sản, phải đổ máu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ vay mượn của cách mạng vô sản thế giới. Từ đây, độc lập dân tộc đã thực sự bị mất!
Ngày 20 tháng bảy năm 1954 ở Geneve, Thụy Sĩ, những người Cộng sản Việt Nam kí kết Hiệp đinh đình chiến, chia cắt đất nước thì ngay hôm sau, ngày 21 tháng bảy, ở những vùng đất Việt Nam ngoài vòng kiểm soát của những người Cộng sản, người dân đồng loạt treo cờ rủ để tang cho nền độc lập dân tộc bị giết chết, để tang đất nước chia cắt thành hai quốc gia đối kháng, để tang dân tộc Việt Nam bị chia cắt thành hai thế lực thù địch nhau, để tang cho nhiều gia đình bị chia đôi thành hai trận tuyến bắn giết nhau, để tang cuộc nội chiến không tránh khỏi, để tang cho những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam bị thiêu hủy trong ngọn lửa chiến tranh, để tang sớm cho hàng triệu người Việt thiệt mạng trong cuộc nội chiến ý thức hệ vô nghĩa đó!
Đưa giá trị giai cấp hư vô lên trên giá trị dân tộc thiết thực, những người Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này đến cuộc chiến tranh khốc liệt khác. Cuộc nội chiến Bắc – Nam 20 năm. Cuộc chiến tranh Campuchia hơn 10 năm. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 10 năm. Đi từ cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo này đến cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo khác. Những cuộc đấu tố thanh trừng trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong vụ Nhân văn Giai phẩm, trong vụ xét lại chống đảng đã bắn giết, đày ải, loại bỏ hàng triệu người Việt Nam tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, những người đã làm nên niềm tự hào Việt Nam thời xã hội Việt Nam giã từ nền sản xuất nông nghiệp cơ bắp tăm tối đi tới xã hội công nghiệp ánh sáng cùng loài người văn minh.
Những người Việt Nam yêu nước thương nòi, những người Việt Nam chân chính hôm nay nói tiếng nói của lịch sử, của đạo lí, của văn hóa Việt Nam đòi vất bỏ gông cùm chủ nghĩa Mác Lê nin sai lầm tội lỗi, vất bỏ gông cùm ý thức hệ giai cấp phản dân tộc để thoát khỏi thân phận nô lệ Bắc thuộc đều bị Nhà nước Cộng sản coi là thế lực thù địch, bị bộ máy chuyên chính của Nhà nước Cộng sản giám sát, theo dõi như những người tù ngay tại nhà mình. Nhiều người Việt Nam chân chính bất hạnh hơn, người trước người sau đang lần lượt vào những nhà tù khắc nghiệt, những địa ngục trần gian được Nhà nước Cộng sản xây dựng, mở rộng trên khắp đất nước Việt Nam. Dùng ngục tù phân loại người Dân. Những người Dân khảng khái, trung thực đều bị tống vào ngục tù để xã hội Việt Nam chỉ còn bầy cừu cam chịu dưới sự chăn dắt của bạo lực Cộng sản, để dân tộc Việt Nam chỉ còn là sắc tộc Việt thiểu số của Đại Hán, chỉ còn là những thân phận nô lệ của Nhà nước độc tài đảng trị.
3. KIÊN TRÌ CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN, KIÊN TRÌ ĐẤU TRANH HẬN THÙ GIAI CẤP, DÙ ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT ĐÃ BAO LÂU THÌ DÂN TỘC VIỆT NAM VẪN MÃI LI TÁN
Khi những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng, Nga Cộng ép những người Cộng sản Việt Nam phải kí hiệp định Geneve chia đôi đất nước Việt Nam là họ đã chọn dải đất Việt Nam làm bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ và chọn dân tộc Việt Nam làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó để đất nước họ yên ổn xây dựng, phát triển.
Chính chủ nghĩa Mác Lê nin đã tạo ra không gian lịch sử, yếu tố xã hội và phát động cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu và vô nghĩa. Xã hội tư bản đưa giới chủ, đưa những người giàu có của cải, giầu có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Với xã hội tư bản, Cái Tôi của người Dân được nhìn nhận, cá nhân được khẳng định, quyền con người được luật pháp bảo đảm. Mỗi người tồn tại trong cuộc đời là một cá nhân, phải đến xã hội tư bản công nghiệp mới có được điều bình thường mà vĩ đại đó. Từ bầy đàn đi đến cá nhân, đó là một bước tiến vĩ đại của tiến trình lịch sử loài người. Cá nhân được giải phóng, những con người khổng lồ xuất hiện đưa xã hội loài người thực sự bước vào thời ánh sáng văn minh và phát triển huy hoàng.
Xã hội Cộng sản đưa giai cấp công nông, những người lao động làm thuê, lao động cơ bắp, không có của cải, không có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Cộng sản chỉ những người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng sản mới có Cái Tôi, mới có cá nhân, còn người dân chỉ là đám đông, là bầy đàn, không có cá nhân. Đó là xã hội mông muội, tối tăm, là một bước thụt lùi thảm hại của lịch sử, một nỗi đau nhân loại.
Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho giai cấp công nhân, những người lao động cơ bắp làm thuê không của cải, không tri thức phải quyết đào mồ chôn những ông chủ tư bản giầu có của cải và trí tuệ. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho chế độ Cộng sản kéo lùi lịch sử phát triển loài người về thời tối tăm phải quyết tiêu diệt chế dộ Tư bản đã đưa xã hội loài người tới ánh sáng văn minh. Nhiệm vụ lịch sử đó của những người Cộng sản, của giai cấp vô sản thế giới đã tạo ra chiến tranh ý thức hệ, đẩy nhân dân vào những cuộc đấu tố, thanh trừng, thảm sát, đẩy loài người vào những cuộc chiến tranh liên miên. Vì thế, về thực chất cuộc chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến tranh bóng tối mông muội quyết tiêu diệt ánh sáng văn minh và ánh sáng văn minh quyết đẩy lùi bóng tối mông muội!
Vì là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên nước Mĩ hùng mạnh của thế giới tư bản phải tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn bóng tối Cộng sản lan ra thế giới. Có sức mạnh kinh tế và quân sự không nước nào sánh được nhưng nước Mĩ vẫn phải chuốc lấy thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì chiến thắng của cuộc chiến tranh nào xét cho cùng cũng là chiến thắng của văn hóa, của đạo lí. Những người Cộng sản Việt Nam đã giấu kín cuộc chiến tranh ý thức hệ dưới danh nghĩa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người Dân Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh ý thức hệ là những nạn nhân, những vật hi sinh nhưng với tư thế những anh hùng xả thân chống Mĩ cứu nước và chiến thắng đã thuộc về những người anh hùng đó. Đó là chiến thắng của văn hóa, của lẽ sống Việt Nam. Đó là chiến thắng của những người mẹ lần lượt tiễn đến đứa con cuối cùng ra trận và những đứa con ấy đã lần lượt bỏ mình trên những ngả đường chiến trận để làm nên chiến thắng dâng lên người mẹ nghèo khổ mà giầu lòng yêu nước thương nòi, dâng lên Mẹ Tổ quốc Việt Nam.
Sau chiến thắng đó, sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cuộc chiến tranh Nam – Bắc núi xương, sông máu chấm dứt, một thời cơ phát triển, chấn hưng đất nước vô cùng thuận lợi đã mở ra. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển thuận lợi như lúc đó. Nhưng với tầm văn hóa thấp kém, không vượt được lên trên các chủ nghĩa, làm chủ các chủ nghĩa nên chỉ giáo điều, dập khuôn, làm nô lệ của chủ nghĩa Mác Lê nin lầm lạc, phản dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích dân tộc, vẫn nhìn thế giới và nhìn dân tộc mình bằng con mắt hận thù giai cấp, vẫn mê muội lấy đấu tranh giai cấp ứng xử với thế giới và lấy đấu tranh giai cấp chống phá, nô dịch chính dân tộc mình, tù đày chính Nhân Dân mình, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ lịch sử để Việt Nam bước lên đường phát triển, hòa nhập cùng loài người văn minh.
Không vì lợi ích dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam
Dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo khổ phải chịu những đau thương mất mát quá lớn để chiến thắng một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính chào Việt Nam, vui mừng mở vòng tay đón Việt Nam hòa nhập với cuộc sống thanh bình của thế giới. Cả thế giới động lòng trắc ẩn trước hi sinh mất mát đau thương của Việt Nam, muốn bù đắp, chia sẻ với Việt Nam, muốn giúp Việt Nam xây dựng lại đất nước. Cả nước Mĩ thua trận cũng muốn làm lành với Việt Nam bằng việc chủ động đề nghị bình thường hóa quan hệ hai nước để nước Mĩ có trách nhiệm với Việt Nam sau chiến tranh.
Nếu đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam như họ vẫn xưng xưng tự nhận, thực sự vì lợi ích dân tộc thì họ phải ý thức được trách nhiệm về nỗi đau mất mát quá lớn mà dân tộc Việt Nam phải nhận khi là công cụ, là vật hi sinh của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nhận trách nhiệm để thấy việc phải làm là nhanh chóng thoát ra khỏi thân phận công cụ của ý thức hệ, trở về với dân tộc, vì lợi ích dân tộc mà bình thường hóa quan hệ với Mĩ, mở ra thời kì mới hòa nhập với thế giới, đón nhận thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới và quan trọng nhất là khoa học kĩ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn từ nước Mĩ để xây dựng cuộc sống mới cho Nhân Dân.
Không bận tâm đến lợi ích dân tộc, vẫn trói mình trong chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ biết có giai cấp, lạc lõng trong tình cảm vay mượn hận thù giai cấp, đánh tráo chiến thắng bằng giá máu quá đắt của dân tộc Việt Nam là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, lại sẵn thói kiêu ngạo Cộng sản, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vênh váo đưa ra cớ đòi Mĩ bồi thường chiến tranh để từ chối bình thường hóa quan hệ với nước Mĩ thua trận. Cùng với những sai lầm tệ hại khác, vênh váo không bình thường hóa quan hệ với Mĩ dẫn đến cuộc cấm vận của Mĩ kéo dài suốt hai mươi năm. Lệnh cấm vận của Mĩ đã dựng bức tường sừng sững ngăn cách Việt Nam với thế giới, chặn đứng dòng vốn đầu tư, dòng khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại của thế giới chảy vào Việt Nam làm cho đất nước Việt Nam chìm sâu trong nghèo đói, khủng hoảng, kinh tế kiệt quệ, người Dân khổ cực, thiếu thốn đủ bề.
Vài tỉ tiền Mĩ bồi thường chiến tranh ném vào cái túi thủng của Nhà nước tham nhũng nào có thấm tháp gì so với hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ đô la mà các nước phát triển đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam khi bình thường hóa quan hệ với Mĩ.
Không vì lợi ích dân tộc, vẫn lấy đấu tranh giai cấp chống phá dân tộc, đánh mất cả nội lực to lớn, đánh mất cả sức sống mạnh mẽ và sức sáng tạo vô tận của dân tộc Việt Nam
Năm 1954, những người Cộng sản nhẫn tâm chia đôi đất nước Việt Nam đã tạo ra hai dòng chảy Nam – Bắc ngược chiều nhau. Dòng chảy nhỏ bé, ngắn ngủi của gần hai trăm ngàn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc và dòng chảy ồ ạt, mạnh mẽ, kéo dài của hai triệu người Dân miền Bắc di cư vào Nam.
Năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh Nam Bắc, lại có hai dòng chảy Nam Bắc ngược chiều nhau. Một dòng chảy của những người thân trong những gia đình bị trận tuyến ý thức hệ chia cắt hai mươi năm tìm về với nhau. Nhưng chỉ có người từ miền Bắc ào ào đổ vào miền Nam. Người thắng cuộc hồ hởi tìm đến người mặc cảm thua cuộc. Dòng chảy Bắc – Nam. Đó là dòng chảy tự nhiên. Nhưng còn có dòng chảy do những người say máu đấu tranh giai cấp tạo ra, những người chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân tộc, những người cuồng tín, nô lệ của học thuyết đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực giai cấp vô sản quyết tiêu diệt dân tộc Việt Nam đến cùng. Dòng chảy của hàng trăm ngàn người đã tham gia bộ máy quân sự và bộ máy Nhà nước của chính quyền Sài Gòn thua cuộc bị dẫn giải ra miền Bắc tống vào các nhà tù được mang tên là các trại cải tạo. Dòng chảy Nam – Bắc.
Không biết nhận ra đường về với dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản vẫn lấy giai cấp vay mượn đánh phá dân tộc ruột thịt của mình. Bài bản đấu tranh giai cấp đã làm kiệt quệ miền Bắc là cải tạo tư sản lại được áp dụng ở miền Nam làm kiệt quệ cả miền Nam. Tư sản dân tộc miền Nam đông đảo và giàu có đã tạo ra cả một nền công nghiệp hiện đại và thương nghiệp phát triển hòa nhập với thị trường thế giới. Tước đoạt quyền làm chủ của những người biết làm chủ. Giao cơ sở sản xuất kinh doanh của họ cho những người không biết sản xuất kinh doanh, không có mối quan hệ giao thương với thế giới đã phá hủy cả một nền công thương nghiệp dân tộc phát triển, cắt đứt mối quan hệ giao thương với thị trường thế giới. Việt Nam tự cô lập trong nghèo đói.
Bài bản đấu tranh giai cấp là duy trì và khoét sâu mãi trận tuyến giai cấp, trận tuyến địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa súng đạn, thuốc nổ và những tay súng AK vào miền Nam thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh người Việt giết người Việt. Chiến tranh kết thúc, những họng súng AK lại gom hàng trăm ngàn người trong bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam vào những nhà tù rải rác ở vùng rừng núi khắc nghiệt miền Bắc. Những người làm nên bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam là lực lượng tinh hoa, ưu tú nhất của xã hội miền Nam và cũng là nguồn lực con người lớn lao và quí giá của dân tộc Việt Nam. Tù đày họ không những hủy bỏ một nguồn lực lao động cao cấp mà còn tiếp tục nuôi dưỡng hận thù trong lòng dân tộc, li tán dân tộc.
Những đòn đấu tranh giai cấp khốc liệt đó liên tiếp đánh những đòn chí tử vào dân tộc Việt Nam. Đánh vào nội lực, đánh vào lực lượng sản xuất tạo ra của cải xã hội làm cho đất nước đã nghèo càng nghèo thêm. Đánh vào lòng tin làm cho người dân thấy bế tắc, không còn lòng tin vào ngày mai. Đánh vào tình cảm dân tộc, đánh vào lòng yêu nước làm cho người dân dù nặng lòng với nước cũng không tìm thấy chỗ đứng trên đất nước thân yêu phải bỏ nước ra đi tạo ra dòng người đổ ra biển vượt biên kéo dài trong nhiều năm, ồ ạt vào những năm từ 1975 đến 1990 và rải rác đến tận hôm nay. Dòng thác người trên biển đi tìm cái sống trong cái chết đã tạo ra hình ảnh một Việt Nam đau thương, tủi nhục trước con mắt thế giới và thế giới đã phải tạo ra một từ mới Boat People – Thuyền Người để gọi những người Việt Nam khốn khổ này. Chạy trốn đòn đấu tranh giai cấp tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, hơn ba triệu người Việt Nam tìm đến vòng tay nhân hậu cưu mang của các dân tộc trên thế giới, khoét sâu sự li tán trong lòng dân tộc Việt Nam đến nay vẫn chưa thể hàn gắn. Nửa triệu người vùi xác dưới biển trong cuộc chạy trốn những người lãnh đạo Cộng sản lấy giai cấp tiêu diệt dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể trốn trách trách nhiệm về cái chết mất xác của nửa triệu người Việt Nam này.
Lấy giai cấp thống trị dân tộc. Lấy đấu tranh giai cấp đánh tan tác, li tán dân tộc. Mang gia sản thiêng liêng vô giá của dân tộc ra đánh đổi lấy liên minh giai cấp, liên minh ý thức hệ như chia đôi đất nước, chia dân tộc Việt Nam ra làm hai nửa đối kháng chém giết nhau. Vạch trận tuyến chiến tranh ý thức hệ trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó. Cắt đất đai thiêng liêng của tổ tiên cho Tàu Cộng để duy trì liên minh ý thức hệ với Tàu Cộng, để duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam . . . Còn vô vàn dẫn chứng không thể kể xiết về lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử thí bỏ lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam vì lợi ích nhỏ bé của đảng. Những dẫn chứng này, lịch sử sẽ không bỏ sót và lịch sử sẽ phán xét công bằng, sòng phẳng.
Không thể nhắm mắt trước lịch sử và không thể lừa dối nhân dân khi cố tình ghi trong điều 4 Hiến Pháp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích cả dân tộc Việt Nam!
P.Đ.T.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét